CÁC
BỆNH TUYẾN VÚ LÀNH TÍNH
Ths
Nguyễn Bá Thiết-BVPSTW
Ts
Vũ Văn Du- BVPSTW
Bất
kỳ khối u nào trong vú cũng gây ra sự lo lắng cho người phụ nữ, nhưng không có
nghĩa là tất cả các khối u là ung thư. Các biến đổi lành tính của tuyến vú là
rất phổ biến. Ngực của phụ nữ thay đổi liên tục, kể từ thời điểm phát triển của
họ, thông qua việc mang thai và mãn kinh. Nhiều thay đổi lành tính của vú có
thể cần phải điều trị hoặc không cần điều trị. Tuy nhiên cũng không nên quá chủ
quan khi thấy bất kỳ một thay đổi khác nào trên vú mà không có sự tư vấn hay
thăm khám của các chuyên gia về sản phụ khoa.
Bệnh vú lành tính là tất cả các bệnh lý của vú, ngoại
trừ ung thư vú. Bệnh lý này thường phát sinh từ các thành phần cấu tạo nên vú:
biểu mô ống dẫn sữa, hoặc ở mô liên kết và mô mỡ. Có thể phân loại các bệnh lý
lành tính tuyến vú làm 4 nhóm cho dễ nhớ: Nhóm
bệnh bẩm sinh hay phát triển bất thường của tuyến vú: tật thiếu núm vú, phì đại
tuyến vú... Nhóm bệnh do nguyên nhân chấn thương và viêm nhiễm : Áp xe vú, lao
tuyến vú, hoại tử mỡ .... Nhóm bệnh liên quan đến các ống tuyến sữa: Xơ nang
tuyến vú, nang vú, u nhú trong ống dẫn sữa, giãn ống tuyến sữa... Nhóm bệnh liên quan đến tổ chức liên kết của
tuyến vú: u xơ tuyến, u
mỡ, u bạch huyết…Trong bài viết này chúng tôi xin nêu ra một số bệnh tuyến vú
lành tính thường gặp.
1.
Xơ nang tuyến vú
Đây là dạng bệnh lý phụ thuộc hormone, hay gặp ở giữa lứa tuổi 30-50. Các triệu chứng mất đi sau
mãn kinh. Nguyên nhân là do mất cân bằng nội tiết giữa estrogen và progesteron
trong một thời gian dài, tổ chức vú trải qua nhiều thay đổi hình thái khác
nhau. Vào thời điểm tăng tiết estrogen, các tế bào biểu mô tăng sinh trong các ống
(tăng sinh ống) và các phân thuỳ (tăng sinh tuyến). Với mức estrogen giảm, biểu
mô cuộn xoắn, các ống trở thành nang, các phân thuỳ và vùng đệm tăng tổ chức xơ
(tăng biểu mô tuyến xơ cứng và xơ cứng vùng đệm)
Trên lâm sàng
bệnh nhân thường đau vú theo chu kỳ: xuất hiện khoảng 8 ngày trước khi hành
kinh, biến mất sau hành kinh, đau tự nhiên, lan ra hai tay. Khi sờ nó có thể là
các u nang đặc trưng: Khối u tròn, giới hạn rõ, hơi cứng, thường đau, kích
thước và số lượng thay đổi; Hay là các mảng cứng: thường thấy những mảng cứng
trên vú giới hạn không rõ, mất đi sau hành kinh.
Đây là bệnh lý hình thành từ việc tăng
sinh các tuyến và ống tuyến vú ( kết hợp với xơ hoá mô đệm) nên có thể làm tăng
nguy cơ ung thư vú. Vậy khi đã nghĩ đến xơ nang tuyến vú thì nên có những thăm
dò như: chụp vú, chọc dịch nang, chọc hút tế bào để có những sàng lọc ung thư
sớm.
Có thể bắt đầu điều trị bằng thuốc
nếu bệnh nhân cảm thấy khó chịu và mong muốn được điều trị. Các hay dùng: thuốc
ức chế prolactin như bromocriptine
2,5 mg, thuốc ức chế estrogen như danazol 100mg đến 200mg/ ngày. Phẫu thuật cắt
khối u được đặt ra khi: chọc dò ra lẫn máu, sinh thiết thấy loạn sản hoặc có tế
bào nghi nghờ.
2. U xơ
tuyến
Khối u phát triển từ
mô liên kết giữa các tiểu thuỳ. Thường xảy ra trước tuổi 35. Khối u có đặc
điểm: Chắc, xơ, đều, tròn hoặc hình trứng, di động dưới da, không đau, không
liên quan với chu kỳ kinh. Kích thước thay đổi khoảng 2- 3cm, thường chỉ có một
u, đôi khi có nhiều u và xuất hiện kế tiếp theo thời gian. Đây là loại u dễ
chẩn đoán trong các u lành tính tuyến vú, bệnh nhân cũng có thể nhận biết đặc
điểm khối khối u một cách dễ dàng, còn bác sĩ có thể chẩn đoán ngay khi khám
lâm sàng. Siêu âm và chụp vú ít có giá trị chẩn đoán với trường hợp này. Tuy
nhiên cũng nên chọc lấy tế bào bằng kim sinh thiết nhỏ giúp khẳng định chẩn
đoán và loại trừ ung thư. U xơ tuyến không tạo nên yếu tố nguy cơ gây ung thư,
thường ổn định và không đáp ứng với điều trị nội tiết. Vậy nên có u xơ trước 35 tuổi chúng ta có thể theo
dõi định kỳ mỗi 6 tháng. Phẫu thuật cắt bỏ khối u để làm giải phẫu bệnh được
đặt ra khi khối u to và phát triển nhanh, chọc tế bào nghi ngờ hoặc sau 35
tuổi.
3. Nang vú
Nang là một hốc chứa đầy
chất dịch. Hốc này xuất hiện do một đoạn của ống dẫn sữa nở ra. Phần lớn người
bệnh tự phát hiện thấy khi nằm sấp đè lên ngực hay chà xát trong lúc tắm, vì
những lúc đó nang vú căng lên. Nhưng có khi các nang này lại không đau và cũng
không thể sờ thấy được.
Số lượng nang này nhiều hay ít tùy người, kích thước lớn nhỏ không đều, đường kính từ vài mm đến vài cm, hoặc to hơn, to đến một mức nào đó hoặc nằm sát dưới da thì mới sờ thấy. Các nang này thường hay gặp ở phụ nữ trên 40 tuổi, hiếm gặp ở phụ nữ dưới 30 tuổi, nhưng sau khi mãn kinh nang sẽ sẹp đi . Khi nghi là nang vú, nên đi khám bác sĩ chuyên khoa. Hiện nay, siêu âm giúp cho bác sĩ chẩn đoán bệnh nang vú chính xác. Bác sĩ sẽ dùng kim chọc rút dịch trong nang. Khi rút dịch, nang sẽ xẹp đi và hiếm khi tái phát lại. Chọc hút dịch nang có màu vàng chanh hoặc nâu. Nếu dịch hút ra là máu thì phải sinh thiết sau hút dịch để loại trừ ung thư, sau chọc hút nếu nang tái phát thì phải hút lại và điều trị phẫu thuật bóc nang.
Số lượng nang này nhiều hay ít tùy người, kích thước lớn nhỏ không đều, đường kính từ vài mm đến vài cm, hoặc to hơn, to đến một mức nào đó hoặc nằm sát dưới da thì mới sờ thấy. Các nang này thường hay gặp ở phụ nữ trên 40 tuổi, hiếm gặp ở phụ nữ dưới 30 tuổi, nhưng sau khi mãn kinh nang sẽ sẹp đi . Khi nghi là nang vú, nên đi khám bác sĩ chuyên khoa. Hiện nay, siêu âm giúp cho bác sĩ chẩn đoán bệnh nang vú chính xác. Bác sĩ sẽ dùng kim chọc rút dịch trong nang. Khi rút dịch, nang sẽ xẹp đi và hiếm khi tái phát lại. Chọc hút dịch nang có màu vàng chanh hoặc nâu. Nếu dịch hút ra là máu thì phải sinh thiết sau hút dịch để loại trừ ung thư, sau chọc hút nếu nang tái phát thì phải hút lại và điều trị phẫu thuật bóc nang.
4.
U nhú
trong ống dẫn sữa
Đây là một trong những nguyên nhân gây
tiết dịch núm vú ngoài thời kỳ cho con bú. Do sự
tăng sinh biểu mô trung tâm trên trục liên kết tuyến và phát triển tạo nên
các u nhú trong lòng ống dẫn sữa. Triệu
chứng thường gặp trong thể bệnh này là tiết
dịch hoặc máu tự nhiên một hoặc hai bên vú, ép xung quanh quầng vú có thể
thấy dịch chảy ra từ núm vú. U nhú trong ống dẫn sữa thường lành
tính. Tuy nhiên cũng cần có những thăm dò như chụp X quang nhằm loại trừ ung
thư vú, chụp ống dẫn sữa để chẩn đoán: sau khi tiêm chất cản quang vào ống dẫn
sữa, sẽ thấy ống dẫn sữa bị tắc và u nhú trong ống dẫn sữa. Khi được chẩn đoán
là u nhú trong ống sữa giãn thì phẫu thuật cắt khối u làm giải phậu bệnh
là phương pháp điều trị chủ yếu. Người ta có thể đánh dấu khối u trước mổ
bằng cách tiêm xanh methylen.
Ngoài ra còn có những
bệnh lành tính khác có thể gây tiết dịch núm vú như: Giãn hoặc xơ nang ống
tuyến, tăng tiết sữa kết hợp với vô kinh, vô sinh, Papilloma ống tuyến. .Bệnh
nhân khi thấy chảy dịch hay máu qua núm vú thường lo sợ rằng mình có thể bị ung
thư, tuy nhiên phần lớn trường hợp ở tuổi dưới 30 là có nguyên nhân lành tính.
Trong các trường hợp này, nên cho tìm tế bào lạ từ chất dịch và làm siêu âm vú.
Thấy có gì khả nghi thì mổ lấy ống sữa. Nên nhớ khả năng bị ung thư rất hiếm
gặp. Và nếu có ung thư thì trường hợp này cũng dễ điều trị vì u còn nhỏ..
5. Áp xe vú
Thường gặp ở các bà mẹ
trẻ sinh con và cho con bú lần đầu. Dấu hiệu lâm sàng phụ thuộc vào vị trí,
giai đoạn bệnh: giai đoạn viêm, bệnh thường khởi phát đột ngột với sốt cao, mệt
mỏi, đau đầu, mất ngủ, vú tấy đỏ lan tỏa, chắc và đau. Giai đoạn này thường kéo
dài từ 1 đến 2 tuần sau đấy sẽ chuyển sang giai đoạn hình thành khối áp xe chứa
mủ. Một điều mà các bác bác sĩ hay làm là điều trị kháng sinh tích cực trong
giai đoạn viêm để tránh trường hợp nhiễm trùng nhiễm độc nặng hơn và đồng thời
để khu trú khối áp xe. Trích rạch da và tháo dẫn lưu mủ kết hợp sử dụng kháng
sinh là phương pháp điều trị cho ổ áp xe vú. Để phòng tránh áp-xe vú trong thời
kỳ cho bú cần giữ gìn vệ sinh tốt vùng vú trước và sau khi cho con bú. Cho trẻ
bú đúng cách, không cho ngậm nhai vú lâu. Tránh làm sây sát, rạn nứt đầu
núm vú, tránh ứ đọng sữa, tắc sữa.
6. Hoại tử mô mỡ
Hoại tử mỡ của vú là một quá trình viêm vô trùng
lành tính của các mô mỡ. Nó có thể xảy ra thứ phát sau chấn thương do tai nạn
hoặc phẫu thuật, hoặc nó có thể liên quan với ung thư hay bất kỳ tổn thương mà
gây nên mủ hoặc hoại tử thoái hóa khác. Trên lâm sàng, hoại tử mỡ có thể có
triệu chứng giống ung thư vú nếu nó xuất hiện như là một khối dày đặc kết hợp
với co rút da, bầm máu, ban đỏ, và da dày. X quang vú, kết quả siêu âm và chụp
cộng hưởng từ không phải luôn phân biệt được hình ảnh của hoại tử chất béo từ
một mô ác tính. Ngay cả sự xuất hiện của tổn thương lành tính trên hình ảnh
cũng không thể loại trừ được là có bị ác tính hay không. Vậy nên trong tổn
thương này cần phải chích lấy khối hoại tử làm giải phẫu bệnh loại trừ ung thư,
sau đấy điều trị nội khoa bằng các thuốc kháng estrogen.