Chửa trứng
Chửa trứng là một phần của nhóm các
bệnh nguyên bào nuôi do thai nghén( gestation trophoblastic diseases). Chửa
trứng bán phần hay toàn phần là các dạng lành tính. Tuy nhiên cũng có nguy cơ
trở thành ác tính. Có 15 - 20% chửa trứng trở thành ác tính.
Chửa
trứng là gì ?
Chửa trứng (hydatidiform mole) là hiện tượng
tăng sinh quá mức của nhau thai. Bình thường nhau thai có nhiệm vụ nuôi dưỡng
bào thai trong thời kỳ thai nghén. Trong trường hợp chửa trứng, nhau thai phát
triển thành khối trong buồng tử cung không được kiểm soát. Đa số trường hợp
không có bào thai, được gọi là "chửa trứng hoàn toàn", một số trường
hợp có bào thai nhưng không sống được gọi là "chửa trứng bán phần"
Trong quá trình thụ thai, một tinh trùng
thụ tinh với một trứng
rỗng. Đây là một trứng
không mang theo bất kỳ một nhiễm sắc thể hoặc vật liệu di truyền nào. Trong trường hợp này bình thường
trứng sẽ bị tiêu đi và không thể cấy vào tử cung để phát triển được. Tuy nhiên có 1 tỷ lệ hiếm gặp, trứng sẽ
không chết. Các
tế bào lá nuôi phát triển thành một khối không kiểm soát được và không có sự phát triển của phôi thai. Đây là chửa trứng toàn phần.
Nếu hai tinh trùng thụ tinh với một trứng bình thường ( điều này cũng rất hiếm khi xảy
ra); có
nghĩa là có quá nhiều hiện vật liệu di truyền trong một trứng. Sự phát triển của các tế bào nuôi vượt qua sự phát triển của các mô bào thai và thai nhi không
thể phát triển bình thường. Từ đây tạo nên chửa trứng bán phần.
Chửa trứng toàn phần hay chửa trứng
bán phần thì đều không thể sinh ra em bé sống được. Một phụ nữ có thai mà có chẩn đoán là chửa trứng thì được
gọi là thai trứng ( molar pregnancy).
Chửa trứng là một phần của nhóm các
bệnh nguyên bào nuôi ( gestation trophoblastic diseases). Chửa trứng bán phần
hay toàn phần là các dạng lành tính. Tuy nhiên cũng có nguy cơ trở thành ác
tính. Có 15 - 20% chửa trứng trở thành ác tính. Điều này sẽ
được mô tả rõ dưới đây.
Chửa
trứng có phổ biến không ?
Tỷ
lệ thai trứng thay đổi theo chủng tộc, vùng địa lý khác nhau. Tỷ lệ thai trứng ở
Mỹ khoảng 1/1500 – 1/2000 phụ nữ có thai, thai trứng bán phần chiếm khoảng 10%,
tỷ lệ tiến triển thành thai trứng xâm nhập sau thai trứng toàn phần khoảng 10 –
15 %, tỷ lệ tiến triển thành ung thư nguyên bào nuôi khoảng 1/40 sau thai trứng,
1/150000 sau đẻ. Ở châu Âu tỷ lệ thai trứng 1/1000 phụ nữ mang thai, thai trứng
xâm nhập 1/12000, ung thư nguyên bào nuôi là 1/40000. Tại Trung Quốc tỷ lệ thai
trứng 0,78 -0,81/1000 phụ nữ có thai, tỷ lệ này đặc biệt cao ở phía nam Trung
Quốc. Tại Nhật Bản tỷ lệ thai trứng 3,05/1000 phụ nữ có thai.
Khoảng trên 80% các trường hợp sau hút thai trứng sẽ trở về bình thường, trong khoảng 20% còn lại nguyên bào nuôi tiếp tục phát triển xâm lấn cơ tử cung (thai trứng xâm lấn: invasion mole), hoặc kèm theo di căn các cơ quan khác (ung thư nguyên bào nuôi: choriocarcinoma).
Khoảng trên 80% các trường hợp sau hút thai trứng sẽ trở về bình thường, trong khoảng 20% còn lại nguyên bào nuôi tiếp tục phát triển xâm lấn cơ tử cung (thai trứng xâm lấn: invasion mole), hoặc kèm theo di căn các cơ quan khác (ung thư nguyên bào nuôi: choriocarcinoma).
Biểu
hiện của chửa trứng ?
Người phụ nữ bị chửa trứng thường có nồng độ hCG (human chorionic gonadotrophin) trong máu cao hơn mức trung bình so với một phụ nữ có thai bình thường. Hormone này được sản xuất bởi các tế bào nuôi. Nồng độ hCG máu cao bởi vì có một số lượng lớn các tế bào nuôi tiết ra. Nồng độ hCG cao tạo nên một số các triệu chứng dưới đây:
Triệu chứng mang thai. Bạn có thể có
dấu hiệu của thai kỳ như chậm kinh, cảm giác ốm (buồn nôn), nôn, đau vú,
vv . Bạn có thể nhận cảm thấy rằng thai lớn hơn dự kiến
so với số tuần thai
bạn đang mang.
Điều này là do thai trứng phát triển nhanh hơn so với một thai kỳ
bình thường, do các mô nguyên bào nuôi phát
triển một cách bất thường.
Chảy máu. Bạn có thể bị chảy máu âm đạo sớm
trong thai kỳ. Đây là triệu chứng phổ biến nhất. Nhiều phụ nữ nghi ngờ rằng họ bị doạ sẩy thai.
Không có triệu chứng. Một số phụ nữ
bị chửa trứng nhưng không có triệu
chứng. Thai trứng được chẩn đoán nếu người phụ nữ này có thói quen đi siêu âm kiểm tra.
Triệu chứng hiếm. Rất hiếm khi,
bạn có thể bị huyết áp cao, nôn nghén nặng hoặc triệu chứng của cường
tuyến giáp như: mạch nhanh, chân tay run rẩy…
Chửa
trứng được chẩn đoán như thế nào ?
Nếu bạn có triệu chứng chảy máu đầu thai kỳ thì nên đến gặp bác sĩ để được siêu âm
chẩn đoán. Đôi khi, hình ảnh
trên siêu âm có thể khá đặc trưng. Tuy nhiên, vào
những thời điểm khác hình ảnh
siêu âm có thể chỉ trông giống như
thai
đang sẩy. Nếu bác sĩ nghi
ngờ rằng bạn có thai trứng,thì họ sẽ chỉ định xét nghiệm máu để kiểm
tra nồng độ của βhCG. Mức độ cao hơn bình thường
có thể giúp chẩn đoán.
Nếu bạn có một hình ảnh siêu âm
trông giống như một thai đang sảy và xét nghiệm có nồng độ βhCG cao hơn
bình thường thì chẩn đoán xác định chửa trứng được thực hiện khi thai được lấy ra và kiểm tra tế bào rau thai dưới kính hiển vi.
Nếu bạn không có chảy
máu hoặc các triệu chứng khác,
việc chẩn đoán chửa trứng thường nhờ
vào bạn có một thói quen đi siêu âm thai. Và thai trứng
có hình ảnh khá đặc trưng trên siêu âm.
Chửa trứng được điều trị như thế nào
?
Nạo hút
thai trứng càng sớm khi thai còn nhỏ càng tốt nhằm hạn chế các biến chứng. Đấy
chính là phương châm điều trị bệnh này. Bởi thứ nhất nếu để càng lâu thai trứng
càng to ra thì nguy cơ biến chứng thành ác tính càng cao, một số trường hợp khi
phát hiện thai trứng muộn thì đã có dấu hiệu di căn; thứ 2 nếu thai trướng to sẽ
có nguy cơ băng huyết nguy hiểm đến tính mạng nếu sảy trứng hoặc khi nạo hút trứng.
Bệnh nhân nên được thực hiện thủ thuật tại các cơ sở y tế có các phương tiện hồi
sức tốt. Sau khi hút hết thai trứng bác sĩ sẽ gửi tổ chức tế bào này để kiểm
tra trên kính hiển vi.
Bác sĩ
cũng sẽ khuyến cáo và đề nghị bệnh nhân nên cắt tử cung nếu như chị ấy đã đủ
con không còn nhu cầu sinh đẻ hoặc đã trên 35 tuổi, bởi 2 đối tượng này có nguy
cơ cao có thể bị biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi nếu chỉ nạo hút trứng
đơn thuần.
Cần theo dõi những gì sau điều trị một thai trứng?
Cần theo dõi những gì sau điều trị một thai trứng?
Như đã đề cập ở trên, có một
nguy cơ nhỏ mà bệnh nhân có thể bị là phát triển thành
ung thư nguyên bào nuôi - sau khi loại bỏ thai trứng. Có nguy cơ tế bào
ung thư đã di căn đến các bộ phận khác của cơ thể như phổi, gan hoặc não. Vì vậy, bệnh
nhân cần được
theo dõi chặt chẽ sau điều trị một
thai trứng để giám sát cho việc này.
Khi lần đầu tiên bệnh
nhân được chẩn đoán thai trứng,
nồng độ βhCG của họ sẽ ở mức cao. Nhưng
khi thai trứng đã được loại bỏ thì nồng độ βhCG thường sẽ trở lại bình
thường như khi không mang thai. Nếu bệnh nhân bị biến
chứng
thành ung thư nguyên bào nuôi, nồng
độ hCG có thể vẫn còn cao hoặc tiếp tục tăng cao hơn nữa. Vì vậy, xét nghiệm máu này
là một cách tốt để kiểm tra khả năng biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi
của chửa trứng. Lịch trình xét nghiệm theo dõi nồng độ βhCG của bệnh nhân sẽ được bác sĩ tư vấn. Thường thì
sau loại bỏ thai trứng bệnh nhân sẽ được xét nghiệm lại βhCG 1 tuần 1 lần
cho đến khi βhCG
trở về âm tính. sau đấy sẽ xét nghiệm 2 tuần/lần trong 3 tháng đầu, 4 tuần/lần
trong 6 tháng tiếp theo, 8 tuần/lần trong 12 tháng của năm thứ 2. Như vậy bệnh
nhân phải được theo dõi trong 2 năm.
Khi nào thì cho
là có biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi và điều trị như thế nào ?
Sau nạo hút thai trứng, được chẩn
đoán là ung thư nguyên bào nuôi khi : Trong hai tuần nồng độ βhCG
ở tuần sau cao hơn tuần trước hoặc trong ba tuần liên tiếp nồng độ b hCG không
giảm hoặc sau bốn tuần sau nạo βhCG
> 20.000 IU/L hoặc sau hai tháng
sau nạo βhCG > 500 IU/L hoắc sau sáu tháng sau nạo βhCG
> 5IU/L. Ngoài ra ung thư nguyên bào nuôi cũng được chẩn đoán sau khi đưa
bệnh phẩm đi soi thấy tế bào ung thư trên kính hiển vi, hay thấy hình ảnh chửa
trứng xâm nhập trên những trường hợp có cắt tử cung.
Khoảng 1 trong
200 phụ nữ chửa trứng bán phần và 15 trong 100 phụ
nữ chửa trứng toàn phần sẽ cần được
điều trị bởi vì nồng độ βhCG không trở lại
bình thường. Việc điều trị như thế
nào phụ thuộc vào nồng độ βhCG của bạn, cho dù
đã có di
căn đến các bộ
phận khác của cơ thể hay không. Hoá
trị liệu là phương pháp đầu tay cho điều trị ung thư nguyên bào nuôi. Các hoá
chất hay được sử dụng như methotrexate, etoposide và dactinomycin. Điều trị được tiếp tục cho
đến khi mức βhCG của bạn đã trở
lại bình thường, và cho một vài tuần sau đó.
Ung thư nguyên bào nuôi đáp ứng điều trị rất tốt với hoá chất. Vậy nên điều trị thường rất có hiệu quả trong hầu hết trường hợp. Nếu có một 100
người điều trị thì ít nhất có 98 người khỏi hoàn toàn.
Khi nào thì có thể mang thai trở lại sau
điều trị khỏi thai trứng ?
Sau hai năm theo dõi mà nồng độ βhCG mà không thấy
tăng nữa thì bạn hoàn toàn có thể có thai lại. Bạn vẫn có nguy cơ bị thai trứng
ở những lần có thai tiếp theo. Tuy nhiên theo thống kê thì nếu 100 người có
thai lại thì có dưới hai người có thể bị khởi động lại bệnh nguyên bào nuôi. Vì lý do này,
nồng độ hCG của bạn cần được theo dõi trong thời kỳ
đầu bất kỳ lần mang thai
nào tiếp theo (có thể là một
thai kỳ bình thường, sẩy thai, một chấm dứt
thai, vv).