9 thg 4, 2011

Cần làm gì khi bị mất kinh nguyệt?



Rèn luyện để duy trì sức khỏe
Mất kinh là khi bạn không vướng mắc thời kỳ kinh nguyệt. Thời kỳ
thứ nhất mất kinh là lúc bạn không bị kinh nguyệt ở độ tuổi 16 hoặc lớn hơn.
Thời kỳ thứ hai mất kinh là khi bạn đang trong thời kinh nguyệt bình thường
nhưng sau đó bạn không có kinh 1-3 tháng liên tục. Bạn nên khám bác sĩ nếu
bạn nghĩ rằng bạn bị mất kinh nguyệt.
Nguyên nhân mất kinh nguyệt
Nguyên nhân mất kinh nguyệt lần thứ nhất bởi:
- Vấn đề liên quan não điều khiển thân nhiệt, chính là vùng não tác động
lên tuyến yên điều hòa chu kỳ kinh nguyệt hàng tháng.
- Nhiễm sắc thể khác thường.
- Bệnh tuyến yên, ảnh hưởng tuyến yên. Tuyến yên định vị ngay phía dưới
não bộ và giúp điều hòa chu kỳ kinh nguyệt.
- Gây tắc nghẽn vùng âm đạo, như màng gây trở ngại lưu lượng kinh
nguyệt. Bạn có thể bắt đầu bị mất kinh lần thứ hai do:
- Thai nghén.
- Sử dụng thuốc tránh thai đường miệng hoặc thuốc tránh thai do tiêm như
viên thuốc sinh đẻ có kế hoạch.
- Quá căng thẳng.
- Một số loại dược phẩm nào đó, như thuốc chống trầm cảm, dược phẩm
chữa trị hóa học và dược phẩm chống loạn thần kinh.
- Cơ thể giảm cân nghiêm trọng.
- Vấn đề liên quan tuyến giáp, tuyến khác khiến cho hormone thay đổi kinh
nguyệt.
- Điều chỉnh tập luyện, như chạy việt dã.
Chữa trị mất kinh nguyệt
Điều trị phụ thuộc nguyên nhân làm mất kinh. Có lẻ đơn giản thay đổi chế
độ ăn uống và chương trình tập luyện. Bạn có thể cần đến dược phẩm. Hiếm khi
phẫu thuật.
Ngăn ngừa tình trạng mất kinh
- Trao đổi với bác sỹ nếu bạn bị mất kinh nguyệt 3 lần hoặc nhiều hơn liên
tục. Nếu bạn có thai nghén, nên kiểm tra thai nghén tại nhà.
- Nếu kinh nguyệt của bạn không giống nhau mỗi tháng, ghi lại ngày đầu và
kéo dài bao lâu. Sau đó cung cấp thông tin cho bác sĩ.
- Duy trì trọng lượng cơ thể khỏe mạnh với chế độ ăn uống hàng ngày và
rèn luyện.
- Tìm ra nếu thành viên trong gia đình bạn có vấn đề kinh nguyệt tương tự
như vậy.
- Ghi nhớ rằng khả năng có thai thậm chí bạn không có kinh nguyệt đều
đặn mỗi tháng.


Bệnh Thủy đậu là gì?



Bệnh thủy đậu (dân gian thường gọi là trái rạ) là bệnh lây lan qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc trực tiếp do nhiễm Varicella zoster virus (VZV), thường gặp ở trẻ em. Thời gian ủ bệnh khoảng 2 tuần.
Triệu chứng lâm sàng thường dễ nhận biết: sốt, mệt mỏi và nổi bóng nước khắp
người, đường kính bóng nước từ 2 – 5mm.
Đây là một bệnh lành tính thường gặp ở trẻ em, tỉ lệ tử vong khoảng 1/50.000 trường hợp bệnh tại Mỹ. Nguy cơ bệnh tăng lên khi có kèm viêm phổi. Hút thuốc lá làm gia tăng nguy cơ viêm phổi trong bệnh thủy đậu.
2. Tần suất bệnh thủy đậu trong thai kỳ
Theo nghiên cứu dịch tễ học, tại Anh và Mỹ, tần suất bệnh thủy đậu trên thai kỳ khoảng 3/1000. Tại Mỹ, có ít nhất 3 triệu thai phụ mỗi năm, như vậy có khoảng 9000 trường hợp thai phụ mắc bệnh thủy đậu mỗi năm.
Tại bệnh viện Từ Dũ, hàng năm với hơn 70.000 trường hợp đến khám thai, trong đó có 1 số không nhỏ thai phụ bệnh thủy đậu. Riêng trong 2 tháng đầu năm 2009 có 11 thai phụ bệnh thủy đậu.
Theo nhiều nghiên cứu khác nhau tần suất mắc bệnh thủy đậu nguyên phát (mắc bệnh lần đầu tiên) trong thai kỳ khoảng 5/10.000 – 7/10000, bởi vì hầu hết các thai phụ đã từng mắc bệnh khi còn nhỏ hoặc đã được chủng ngừa trước đó.
3. Bệnh thủy đậu ảnh hưởng trên thai kỳ như thế nào?

Phụ nữ đã từng nhiễm bệnh thủy đậu trước khi mang thai hoặc đã được chủng ngừa bệnh thủy đậu thì được miễn dịch với bệnh này, trong cơ thể đã có kháng thể chống lại bệnh. Do đó, khi mang thai, những thai phụ đã có kháng thể chống lại bệnh thủy đậu không cần phải lo lắng về biến chứng của bệnh đối với bản thân họ cũng như thai nhi.
Thai phụ nhiễm bệnh thủy đậu có nguy cơ viêm phổi do virus varicella 10 – 20%, trong số người viêm phổi do virus này nguy cơ tử vong lên đến 40%.
Tỉ lệ tử vong ở phụ nữ mang thai mắc bệnh thủy đậu cao nhất trong số những người lớn nhiễm bệnh này.
Đối với những thai phụ bệnh thủy đậu nguyên phát khi mang thai, sự ảnh hưởng của bệnh trên thai nhi tùy vào từng giai đoạn tuổi thai:
- Trong 3 tháng đầu, đặc biệt tuần lễ thứ 8 đến 12 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị Hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 0.4%. Biểu hiện thường gặp nhất của hội chứng thủy đậu bẩm sinh là sẹo ở da. Những bất thường khác có thể xảy ra là tật đầu nhỏ, bệnh lý võng mạc, đục thủy tinh thể, nhẹ cân, chi ngắn, chậm phát triển tâm thần.
- Trong 3 tháng giữa, đặc biệt tuần 13 – 20 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội

chứng thủy đậu bẩm sinh là 2%. Sau tuần lễ thứ 20 thai kỳ, hầu như không ảnh hưởng trên thai.
- Nếu người mẹ nhiễm bệnh trong vòng 5 ngày trước sinh và 2 ngày sau sinh, bé sơ sinh dễ bị bệnh thủy đậu lan tỏa do mẹ chưa có đủ thời gian tạo kháng thể truyền cho thai nhi trước sinh. Tỉ lệ tử vong bé sơ sinh lúc này lên đến 25 – 30% số trường hợp bị nhiễm.
4. Cách xử trí khi thai phụ bệnh thủy đậu.
Thai phụ cần được nghỉ ngơi, uống nhiều nước, ăn thức ăn lỏng dễ tiêu hóa, nếu sốt có thể dùng thuốc hạ sốt paracetamol. Giữ vệ sinh thân thể, tránh làm vỡ những bóng nước vì có nguy cơ bội nhiễm.
Vì thai phụ có nguy cơ cao do biến chứng của bệnh thủy đậu: nên dùng varicella – zoster immune globulin (VZIG) đối với những thai phụ có phơi nhiễm với bệnh mà những thai phụ này chưa từng bị bệnh thủy đậu hoặc chủng ngừa .
Việc dùng VZIG không phòng ngừa được nhiễm trùng bào thai, hội chứng thủy đậu bẩm sinh cũng như bệnh thủy đậu sơ sinh
Như vậy, việc dùng VZIG cho thai phụ chỉ phòng ngừa biến chứng nặng ở mẹ chứ


không giúp ích cho thai nhi hoặc trẻ sơ sinh.
Để dự phòng biến chứng cho trẻ, nên dùng VZIG cho bé sơ sinh.
Đối với thai phụ nhiễm bệnh thủy đậu diễn tiến nặng có nguy cơ viêm phổi nên được tư vấn dùng Acyclovir đường tĩnh mạch để giảm nguy cơ cho cả mẹ và thai. Acyclovircó vai trò ức chế sự phát triển của virus nên ức chế sự phát triển của bệnh.
5. Cách dự phòng
- Nên chủng ngừa bệnh thủy đậu khi còn bé hoặc ít nhất 3 tháng trước khi mang thai.
- Khi mang thai nên tránh tiếp xúc với người bệnh thủy đậu.
- Giữ vệ sinh môi trường và vệ sinh thân thể tốt.



8 thg 4, 2011

U nang buồng trứng



U nang buồng trứng là các túi chứa đầy dịch ở trong hoặc trên bề mặt buồng trứng. Có 2 buồng trứng, mỗi buồng trứng có kích thước và hình dạng bằng một quả hạnh nằm ở hai bên tử cung. Trứng phát triển và chín trong buồng trứng và rụng theo chu kỳ hằng tháng trong độ tuổi sinh đẻ của phụ nữ. Nhiều phụ nữ bị u nang buồng trứng vào một thời điểm nào đó trong đời. Phần lớn nang buồng trứng ít hoặc không gây khó chịu và không có hại.
Đa số nang buồng trứng biến mất trong vòng vài tháng mà không cần điều trị. Tuy nhiên, nang buồng trứng nhất là những nang đã vỡ đôi khi gây các triệu chứng nghiêm trọng, và có thể đe doạ tính mạng. Cách tốt nhất để bảo vệ sức khỏe của bạn là biết các triệu chứng và kiểu nang có thể báo hiệu vấn đề nghiêm trọng hơn và phải cần khám khung chậu định kỳ. Dấu hiệu và triệu chứng
Bạn không thể dựa hoàn toàn vào triệu chứng để biết mình có bị u nang buồng trứng hay không. Trên thực tế, bạn có thể không có triệu chứng nào cả. Hoặc nếu có, các triệu chứng có thể giống như triệu chứng của các bệnh khác, như lạc nội mạc tử cung, bệnh viêm tiểu khung, chửa ngoài tử cung hoặc ung thư buồng trứng. Thậm chí viêm ruột thừa và viêm túi thừa có thể có các triệu chứng giống u nang buồng trứng vỡ. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải cảnh giác với bất cứ triệu chứng hoặc thay đổi nào trong cơ thể và biết triệu chứng nào là nặng. Nếu bạn bị u nang buồng trứng, bạn có thể có các dấu hiệu và triệu chứng sau:
 Kinh nguyệt không đều
 Đau vùng tiểu khung - đau âm ỉ liên tục hoặc từng cơn có thể
lan ra lưng dưới và đùi
 Đau vùng tiểu khung ngay trước khi có kinh hoặc sau khi hết
kinh
 Đau vùng tiểu khung khi giao hợp (giao hợp đau)
 Buồn nôn, nôn hoặc cương vú như đang mang thai
 Chướng hoặc đầy bụng
 Chèn ép trực tràng hoặc bàng quang khó hết hoàn toàn nước
tiểu trong bàng quang
Các dấu hiệu và triệu chứng báo hiệu cần đi khám ngay bao gồm:
 Đau bụng hoặc tiểu khung đột ngột, dữ dội
 Đau kèm theo sốt hoặc nôn
Nguyên nhân
Bình thường, mỗi tháng buồng trứng phát triển những cấu trúc giống nang được gọi là nang trứng. Các nang trứng là những "nhà máy hóa chất" nhỏ sản sinh hormon estrogen và progesteron và rụng một trứng khi bạn rụng trứng. U nang xảy ra khi nang trứng không vỡ hoặc không rụng trứng mà tiếp tục phát triển. Đôi khi nang bình thường hằng tháng vẫn cứ phát triển. Khi điều này xảy ra, nó trở thành nang chức năng. Điều này có nghĩa là nang bắt đầu với chức năng bình thường của chu kỳ kinh. Có 2 loại nang chức năng:
U nang trứng. Vào khoảng giữa chu kỳ kinh, tuyến yên giải phóng nhiều hormon hoàng thể hóa (LH), báo hiệu cho nang giải phóng trứng. Khi mọi việc tiến triển theo đúng kế hoạch, trứng thoát khỏi nang và bắt đầu di chuyển theo ống dẫn trứng để thụ tinh. U nang trứng bắt đầu khi lượng LH không tăng lên. Kết quả là nang không vỡ hoặc không giải phóng trứng. Thay vì thế nó phát triển và trở thành u nang. U nang trứng thường không có hại, hiếm khi gây đau và thường tự mất đi sau 2-3 chu kỳ kinh.
U nang hoàng thể. Khi LH tăng mạnh và trứng được giải phóng, u nang đã vỡ bắt đầu sản sinh một lượng lớn estrogen và progesteron để chuẩn bị thụ thai. Điều này làm thay đổi giờ đây được gọi là hoàng thể. Tuy nhiên, đôi khi, lỗ thông để trứng thoát ra bị bịt kín và dịch tích lũy bên trong nang, khiến hoàng thể to lên thành nang. Mặc dù nang này thường tự biến mất trong vài tuần, nó có thể phát triển tới đường kính gần 10cm và có
khả năng tự chảy máu hoặc xoắn buồng trứng, gây đau tiểu khung hoặc đa bụng. Nếu nang chứa đầy máu, nang có thể vỡ, gây chảy máu trong và đau đột ngột, dữ dội. Thuốc điều trị vô sinh clomiphen citrat (Clomid, Serophen), được dùng để gây rụng trứng, làm tăng nguy cơ u nang hoàng thể sau rụng trứng. Nang này không ngăn cản hoặc đe dọa thai nghén.
Khi nào cần đi khám bệnh
Nếu bạn bị đau dữ dội '68oặc đau co thắt vùng bụng dưới, kèm theo sốt và nôn, hãy đến khám bác sĩ. Các dấu hiệu và triệu chứng này hoặc các dấu hiệu và triệu chứng của sốc như rét run, toát mồ hôi, thở nhanh và lơ mơ hoặc yếu - báo hiệu tình trạng cấp cứu và cần chăm sóc y tế ngay.
Sàng lọc và chẩn đoán
U nang buồng trứng có thể được phát hiện khi khám tiểu khung, trong đó bác sĩ sờ nắn buồng trứng. Nếu nghi ngờ u nang, bác sĩ thường khuyên làm thêm xét nghiệm để xác định loại u nang và liệu bạn có cần điều trị hay không. Bác sĩ thường đưa ra một số câu hỏi để xác định chẩn đoán và giúp quyết định điều trị: u nang của bạn có hình dạng bất thường không? Kích thước như thế nào? Chứa đầy dịch, rắn hay hỗn hợp? U nang chứa đầy dịch không có khả năng ung thư. U nang rắn hoặc hỗn hợp dịch và rắn có thể cần
đánh giá thêm để xác định xem liệu có bị ung thư hay không. Để xác định loại u nang, bác sĩ có thể thực hiện các thủ thuật sau:
Thử thai. Thử thai dương tính có thể cho thấy nang của bạn là u
nang hoàng thể, xảy ra khi nang trứng đã vỡ, giải phóng trứng, sau đó bịt kín
trở lại và chứa đầy dịch.
Siêu âm khung chậu. Trong thủ thuật không đau này, một thiết bị giống chiếc gậy (đầu dò) được dùng để gửi và nhận sóng âm thanh cao tần (siêu âm) qua vùng tiểu khung, tạo nên hình ảnh của tử cung và buồng trứng trên màn hình video. Sau đó, hình ảnh này có thể được bác sĩ chụp và phân tích để xác nhận có u nang hay không, giúp xác định vị trí u và xem đó là u rắn hay u đầy dịch.
Nội soi ổ bụng. Dùng máy nội soi - một dụng cụ mảnh, có chiếu sáng được luồn vào trong bụng bạn qua một vết rạch nhỏ, bác sĩ có thể nhìn thấy buồng trứng và cắt bỏ u nang buồng trứng.
Xét nghiệm CA125 máu. Nồng độ protein được gọi là kháng nguyên ung thư 125 (CA125) trong máu thường tăng ở phụ nữ bị ung thư buồng trứng. Nếu bạn bị u nang buồng trứng rắn và có nguy cơ cao bị ung thư buồng trứng, bác sĩ của bạn có thể xét nghiệm nồng độ CA125 trong máu để xác định liệu u nang có thể ung thư hay không. Nồng độ CA125 tăng cũng có thể biểu hiện bệnh không ung thư như lạc nội mạc tử cung, u xơ tử cung và viêm tiểu khung.
Biến chứng
U nang buồng trứng lớn có thể gây khó chịu ở bụng. Nếu u nang lớn chèn ép bàng quang, bạn có thể phải đi tiểu nhiều lần vì dung tích của bàng quang bị giảm. Một số phụ nữ bị các loại u nang hiếm gặp hơn có thể không có triệu chứng, nhưng bác sĩ có thể phát hiện khi khám tiểu khung. Khối u nang buồng trứng phát triển sau khi mãn kinh có thể ác tính. Các yếu tố này khiến khám tiểu khung thường xuyên trở nên quan trọng.
Các loại u nang dưới đây ít gặp hơn u nang chức năng:
U quái. Các nang này có thể chứa mô như tóc, da hoặc răng vì chúng hình thành từ các tế bào sản sinh trứng của người. Những u nang này hiếm khi ung thư, nhưng chúng có thể lớn và gây xoắn đau buồng trứng.
U nội mạc tử cung. U nang này là hậu quả của lạc nội mạc tử cung, một bệnh mà trong đó tế bào tử cung phát triển ngoài tử cung. Một số mô này có thể gắn với buồng trứng và tạo thành khối u.
U nang tuyến. Nhưng nang này phát triển từ mô buồng trứng và có thể chứa đầy dịch hoặc chất nhầy. Chúng có thể lớn đường kính ³29cm và gây xoắn buồng trứng.
Điều trị
Điều trị tùy thuộc vào tuổi, loại và kích thước u nang, và các triệu
chứng của bạn. Bác sĩ có thể gợi ý:
Theo dõi. Bạn có thể theo dõi và khám lại 1-3 tháng sau nếu bạn đang trong độ tuổi sinh đẻ, bạn không có triệu chứng và siêu âm cho thấy bạn có u nang đơn thuần chứa đầy dịch. Bác sĩ thường sẽ khuyên bạn siêu âm theo dõi định kỳ vùng tiểu khung để xem liệu u nang của bạn có thay đổi kích thước hay không. Theo dõi, bao gồm theo dõi định kỳ bằng siêu âm, cũng là sự lựa chọn điều trị phổ biến được khuyến nghị cho phụ nữ sau mãn kinh nếu u nang đầy dịch và có đường kính dưới 5cm.
Dùng thuốc tránh thai. Bác sĩ có thể khuyên dùng thuốc tránh thai để giảm khả năng u nang mới tiến triển trong các chu kỳ kinh nguyệt sau đó. Thuốc tránh thai đường uống có một lợi ích nữa là làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư buồng trứng, nguy cơ này giảm chừng nào bạn còn dùng thuốc tránh thai.
Phẫu thuật. Bác sĩ có thể gợi ý cắt bỏ u nang nếu u nang lớn, không giống u nang chức năng, đang phát triển hoặc tồn tại qua 2-3 chu kỳ kinh. U nang gây đau hoặc các triệu chứng khác có thể được cắt bỏ. Một số u nang có thể được cắt bỏ mà không cắt bỏ buồng trứng trong một thủ thuật được gọi là thủ thuật cắt bỏ u nang. Bác sĩ có thể gợi ý cắt bỏ 1 buồng trứng bị bệnh và để lại buồng trứng lành trong thủ thuật được gọi là thủ thuật cắt bỏ buồng trứng. Cả 2 thủ thuật này đều cho phép bạn duy trì khả năng sinh đẻ nếu bạn vẫn đang trong độ tuổi sinh đẻ. Giữ lại ít nhất 1 buồng trứng cũng có lợi là duy trì được nguồn sản sinh estrogen. Tuy nhiên, nếu khối u nang bị ung thư hóa, bác sĩ sẽ khuyên cắt toàn bộ tử cung để cắt bỏ cả 2 buồng trứng và tử cung. Sau mãn kinh, nguy cơ khối u nang buồng trứng mới được phát hiện bị ung thư hóa sẽ tăng. Hậu quả là bác sĩ thường khuyên phẫu thuật khi khối u nang phát sinh ở buồng trứng sau khi mãn kinh.
Phòng ngừa
Mặc dù chưa có cách chắc chắn để phòng tránh u nang buồng trứng, khám tiểu khung thường xuyên là cách giúp đảm bảo rằng những thay đổi ở buồng trứng của bạn được chẩn đoán sớm. Ngoài ra, hãy cảnh giác với những thay đổi trong chu kỳ kinh nguyệt, bao gồm các triệu chứng không điển hình có thể đi kèm chu kỳ kinh hoặc tồn tại dai dẳng qua vài chu kỳ kinh. Hãy báo với bác sĩ về bất cứ vấn đề gì có liên quan đến kinh nguyệt.

Thắc mắc thường gặp khi cho con bú



Nguồn: suckhoedoisong.vn
Bạn muốn nuôi bé bằng nguồn sữa mẹ quí giá nhưng cũng không ít băn khoăn nhiều điều.
Sữa mẹ “về” ngay sau khi sinh
Đúng. Và trong 2 - 4 ngày đầu này, dù bạn còn mệt và bé bú mẹ chưa thạo nhưng hãy cố gắng cho bé bú sữa non - chất lỏng có màu vàng nhạt này rất giàu chất đạm cũng như các kháng thể, vitamin A và bạch cầu. Bé của bạn sẽ rất thiệt thòi nếu không được bú nguồn sữa này đấy!
Lượng sữa tỉ lệ thuận với kích cỡ bầu vú
Sai. Kích thước của vú không ảnh hưởng gì tới lượng sữa cho bé bú cả. Bởi vú to hay nhỏ là do các mô mỡ quyết định, trong khi ấy, sữa lại được sản xuất nhờ các tuyến sữa. Ngoài ra, lượng sữa tiết ra ở các bà mẹ không giống nhau. Ở cùng một người mẹ, sữa tiết ra cũng không đều giữa 2 bầu vú hay khác nhau vào buổi sáng so với buổi tối, ngày hôm nay so với ngày hôm qua.
Nhiều bà mẹ có không ít băn khoăn xung quanh việc cho con bú.

Đôi gò bồng đảo mất “phom” vì cho con bú
Sai. Nhiều phụ nữ lo ngại việc cho bé bú sẽ làm ngực họ xấu đi và chảy xệ. Tuy nhiên, mối lo ấy là hoàn toàn không có cơ sở. Vì những thay đổi về kích thước bầu vú xảy ra trong quá trình mang thai chứ không phải khi cho con bú.
Để giữ vẻ đẹp của ngực trong giai đoạn này, bạn cũng nên chú ý đến một số vấn đề sau: thứ nhất là không để tăng cân quá mạnh khi mang thai (chỉ tăng từ 10 - 12kg); thứ hai là xoa bóp bầu vú của bạn với chút dầu ôliu hoặc dầu hoa anh thảo để thư giãn và làm mềm mại bầu vú; thứ ba là cai sữa cho em bé từ từ; thứ 4 là khi cho bé bú, không nên để bé vừa ngậm đầu vú vừa ngủ…
Sữa mẹ tốt nhất cho sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ


Đúng. Sữa mẹ có ít nhất 60 loại enzyme với thành phần hoàn hảo các chất dinh dưỡng, vi lượng và đa lượng mà không một loại sữa bột nào trên thị trường có được. Hơn nữa, trong 1ml sữa mẹ có khoảng 4.000 tế bào sống hoạt động, cung cấp một lượng lớn các hormone và yếu tố tăng trưởng… Vì thế, hãy cố gắng cho con bạn được hưởng nguồn sữa quí giá này ít nhất trong 4 - 6 tháng sau khi bé chào đời.
Cho bé bú đều đặn để tăng tiết sữa
Đúng. Việc cho bé bú đều đặn sẽ tăng tiết hormone kích thích tuyến sữa hoạt động mạnh (cho bé bú cũng là sự giao lưu tình cảm giữa mẹ và con). Vì thế, bạn sẽ tiết ra nhiều sữa hơn và không sợ bị mất sữa.
Tuy nhiên, đôi khi bạn mệt mỏi hay bị stress thì sữa cũng sẽ giảm dù bé vẫn bú đều. Trong trường hợp ấy, cần nghỉ ngơi điều độ và ăn uống đầy đủ, sẽ nhanh hồi sữa.
Giúp giảm cân nhanh sau sinh
Đúng. Người phụ nữ cho con bú sẽ giảm cân và trở về vóc dáng cũ nhanh hơn so với người phụ nữ cho con bú bình, vì cho con bú đốt cháy khoảng 1.000 kcal mỗi ngày và giúp tử cung nhanh co. Song, số cân nặng giảm không giống nhau ở các bà mẹ cho con bú.
Đôi khi, sữa tiết ra không đủ “thỏa mãn” bé
Đúng. Với nhiều bé háu ăn, sữa mẹ tiết ra đôi khi không làm bé no ngay lập tức được. Vì thế, khi cho con bú, bạn cần nạp nhiều năng lượng cho cơ thể hơn. Tốt nhất nên duy trì một chế độ ăn uống đa dạng với nhiều loại thực phẩm khác nhau để đủ sức nuôi con và bảo vệ sức khỏe của bạn. Ngoài ra, các bà mẹ không cần thiết phải uống thêm sữa trong thời kì này mà chỉ cần uống nhiều nước. Nên nghỉ ngơi nhiều vì khi mới cho con bú, bạn sẽ cảm thấy rất mệt mỏi.
Thời gian lý tưởng cho mỗi lần bú là từ 10 - 15 phút. Nếu lần này bé đã bú vú phải thì lần sau nên cho bé bú vú trái, để hai bầu vú tiết sữa đều. Nếu cảm thấy bé còn đói, nên cho bé bú thêm. Và một cách rất hay để nhận biết bé đã no hay chưa là ngay sau khi bú xong, bé sẽ ngủ khì.
Cho con bú là biện pháp tránh thai sau sinh
Không hoàn toàn như vậy. Sau khi sinh, nếu bạn cho con bú thường xuyên thì xác suất có thai là 10%. Tuy vậy, việc cho bé bú mẹ hoàn toàn sẽ làm cho chu kì kinh


nguyệt của bạn khởi động lại chậm hơn. Bởi theo các chuyên gia, quá trình cho con bú đã kìm hãm quá trình kích thích các hormone làm rụng trứng.
Bú mẹ là một biện pháp tránh thai hiệu quả khi nó đủ các điều kiện sau: bạn nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong suốt 6 tháng đầu (không dùng bất kì một loại thức ăn ngoài nào); khoảng thời gian giữa 2 lần bú kề nhau không quá 6 tiếng; bé không dùng núm vú giả.
Không cho bé bú nữa khi bạn bị đau đầu vú
Sai. Khi thấy bé bú làm bạn đau có nghĩa là vị trí bé ngậm đầu vú không đúng. Ngay lập tức, bạn cần thay đổi tư thế bú của bé.
Nếu bị đau quá, bạn có thể tạm dừng cho bé bú ở bên ngực bị đau, để tránh hiện tượng nút cổ gà. Lúc đó, bạn có thể vắt sữa bằng tay hoặc dùng dụng cụ vắt sữa và cho bé bú bình tạm trong vài ngày. Khi vắt sữa, bạn nên vân vê đầu vú để sữa xuống nhanh và không làm mất sữa.



Vấn đề Hiếm Muộn Thế nào là hiếm muộn



Theo kiểu Mỹ, thì cái gì cũng phải tính ra thành con số. Không như
các cụ ta ngày xưa, chưa chi đã than là hiếm muộn sợ không có con nối dõi
tông đường, để mà đòi bà lớn phải vui vẻ tuyên bố "muốn cưới vợ bé em
thời cưới cho". Vậy thì định nghĩa y học của hiếm muộn, là : một cặp đã có
chương trình kế hoạch ăn nằm tương đối đúng lịch trình, mà sau 12 tháng
vẫn chưa thụ thai được. Theo như thống kê của Ban Điều tra về Gia đình
Hoa kỳ, thì tỉ số hiếm muộn ở các nước tiền tiến là từ 10 đến 15 phần trăm.
Hiếm muộn gọi là loại 1, nếu cặp vợ chồng chưa bao giờ có bầu, và gọi là
loại 2, nếu trước đó đã từng có bầu, dù có sanh con hay sẩy thai mà bây giờ
mong có con nữa lại bị khó khăn. Tính theo xác suất, thì một cặp vợ chồng
khỏe mạnh bình thường, cứ mỗi kỳ kinh nguyệt thì khả năng có bầu là
khoảng 25 phần trăm. Cứ thế kéo dài 12 kỳ kinh nguyệt, thì khả năng mang
thai phải lên quá 90 phần trăm.
Hiếm muộn là do cả hai phía nam nữ (không phải tại anh cũng không
phải tại em!). Chừng 40 phần trăm là do các yếu tố về phiá người vợ, 40
phần trăm phía người chồng, còn lại 20 phần trăm là do cả hai.
Khả năng thụ thai của phụ nữ giảm dần sau tuổi ba mươi lăm. Thống
kê ở vùng quê Senegal (Phi châu), cho thấy đàn bà trung bình có 8 con, tuổi
thụ thai dễ nhất là 25 và từ 35 tuổi thì kém hẳn. Vùng cao bồi phía tây bắc
nước Mỹ (thuộc các tiểu bang Montana và Dakota), có một giáo phái không
bao giờ sử dụng phương pháp ngừa thai, ở đó người ta cũng thấy tuổi thụ
thai nhiều nhất là tuổi 25. Ở Pháp, có một thống kê với cùng một kết qủa:
Người ta làm thụ thai nhân tạo cho hơn hai ngàn người (lý do vì chồng
không có tinh trùng), thì thấy rằng kết quả tốt nhất là những người ba mươi
tuổi trở xuống (74 phần trăm mang thai), nhóm 31 tới 35 tuổi thì được 62
phần trăm, nhóm trên 35 tuổi chỉ có 54 phần trăm.
Nguyên nhân hiếm muộn phía nữ giới
Các bệnh liên quan đén vấn đề rụng trứng chiếm khoảng một phần ba.
Các bệnh này tương đối dễ chẩn đoán và có thể điều trị được. Nguyên do có
thể là các tuyến nội tiết hoặc là bệnh buồng trứng. Ngoài ra những người hút
thuốc lá, cần sa, LSD... cũng có thể bị bệnh ít trứng rụng hay là không có
trứng rụng.
Khoảng 10 – 40 phần trăm là do bệnh ống dẫn trứng (giây chằng).
Ống đẫn trứng làm việc không được hoàn hảo, hay là bị nghẹt, vì trước đó bị
viêm do nhiễm trùng (thí dụ như bị bệnh lậu), có giải phẫu từ trước, cũng có
khi do một bệnh gọi là bệnh nội cung (endometriosis, bệnh liên quan tới lớp
màng lót bên trong tử cung mọc lạc chỗ).
Những nguyên do khác thì có thể kể các chứng về màng bụng, các
cuộc giải phẫu cũ làm sẹo dính, bệnh xơ tử cung làm tinh trùng khó di
chuyển, chất nhờn cổ tử cung không được tốt. Thảng hoặc cũng có người tạo
ra kháng thể chống tinh trùng (mỗi lần giao hợp có cả tỉ con tinh trùng đi
vào tử cung), nhưng chuyện này khá hiếm.
Người bị bệnh bẩm sinh do rối loạn nhiễm sắc thể, gọi là hội chứng
Turner thì không thụ thai được. Loài người ta, nam nữ khác nhau là vì nam
giới có hai nhiễm sắc thể phái tính trong tế bào gọi là XY, nữ giới lại có hai
nhiễm sắc thể phái tính là XX. Người bị hội chứng Turner thì chỉ có một là
X mà thôi (làm như là thiếu chất nữ), tướng người thấp lùn, cái cổ thì chè bè,
trong bụng có tử cung nhưng buồng trứng thì không có hay là teo không
hoạt động.
Nguyên nhân hiếm muộn ở nam giới
Người đàn ông tốt giống, là người có tinh trùng đầy đủ số lượng và
chất lượng, ống dẫn tinh tốt, tinh trùng được tích trữ và di chuyển hoàn hảo,
và giao hợp đúng lúc. Có một số thuốc nếu dùng lâu có thể làm hại tinh dịch
và tinh trùng, thí dụ như thuốc bao tử Tagamet, thuốc trụ sinh Erythromycin,
Tetracycline (nhiều khi uống lâu dài để trị trứng cá) mấy trụ sinh khác như
Septra, Furadantin, thuốc colchicin trị bệnh gout (khớp sưng đỏ). Thuốc lợi
tiểu và một vài thứ thuốc cao máu làm yếu sinh lý. Thuốc kích thích loại
anabolic steroids mà ta thấy báo chí đôi khi đăng về một số lực sĩ xài trái
phép, có thể làm cho số tinh trùng bị giảm sút hoặc mất hẳn.
Chừng 6 phần trăm số đàn ông hiếm muộn là do chứng "ẩn hoàn"
(cryptorchidism). Ngọc hoàn của cái thai thoạt kỳ thủy nằm ở trong bụng.
Vào khoảng thời gian sắp lọt lòng mẹ, thì mới theo hai cái ống hai bên mà
xuống cái bìu. Nếu một hay hai ngọc hoàn còn nằm ở trong bụng, thì kể là bị
chứng ẩn hoàn. Cần phải mổ để đưa xuống dưới đúng vị trí từ khi đứa trẻ
còn nhỏ, nếu để lâu thì dễ bị ung thư ngọc hoàn. Người đàn ông bị ẩn hoàn
dù chỉ là một bên thôi thì sự sản xuất tinh trùng của ngọc hoàn bên kia (nằm
ở bìu như thường) cũng bị sút giảm Như đã nói trên, đàn bà lâu lâu có người
sinh ra kháng thể chống lại tinh trùng của chồng. Chuyện lạ hơn nữa, là đàn
ông có người lại tự sinh ra kháng thể chống lại chính tinh trùng của mình.
Thuờng thì tinh trùng nằm cô lập trong ngọc hoàn, không giao tiếp với hệ
tuần hoàn, nên những bạch cầu thuộc hệ thống miễn nhiễm không có dịp
nhận biết tinh trùng để mà phản ứng lại. Nhưng nếu ngọc hoàn bị chấn
thương mạnh, bị xoắn, hoặc là bị bệnh hoa liễu thì sự ngăn cách với hệ tuần
hoàn bị ảnh hưởng, thành ra có thể sinh kháng thể tự hại tinh trùng của
mình. Bệnh hoa liễu có thể làm hư ống dẫn tinh, cũng có người ống dẫn tinh
bị nghẹt bẩm sinh.
Nếu nữ giới có hội chứng Turner như đã nói trên, thì phái nam lại có
người bị hội chứng Klinefelter. Đây là một bệnh bẩm sinh, do nhiễm sắc thể
phái tính của người nam, đáng lẽ là XY, thì lại là XXY (giống như là ngả về
phía nữ, kết cục là yếu về nam tính). Tướng người thường mập to nhưng bộ
phận sinh dục bên ngoài lại rất nhỏ. Những người này thường không có tinh
trùng.
Các yếu tố bên ngoài có thể làm cho đàn ông hiếm muộn, là thuốc lá
(làm cho tinh trùng di chuyển chậm), cần sa ( làm giảm lượng testosterone,
và giảm số tinh trùng), rượu, ngộ độc chì, các thứ thuốc trừ sâu rầy...
Y khoa tân tiến giúp được gì
Đơn giản nhất, là những trường hợp bất thường về rụng trứng. Thuốc
Clomiphene giúp cho trứng rụng và giải quyết được một số lớn vụ hiếm
muộn do trứng rụng. Thường thì nếu quá 3 kỳ kinh nguyệt mà không có kết
qủa thì không có hy vọng gì nhiều. Thuốc này hay làm cho sinh đôi , sinh
ba, v.v...
Ngoài ra, thì tùy nguyên nhân mà trị. Có khi phải dùng những
hormone khác. Có những trường hợp cần giải phẫu. Có những bệnh phải
chữa bằng trụ sinh...
Vấn đề thụ thai nhân tạo
Có nhiều kỹ thuật khác nhau:
1. Kỹ thuật tiêu chuẩn dùng đã lâu, là lấy trứng của người nữ hòa với
tinh trùng người nam đã được rửa sạch để 48 giờ cho thành phôi, rồi đặt vào
tử cung để tiếp tục mang thai.
2. Một cách nữa, là lấy một hay nhiều trứng cũng hòa với tinh trùng
như trên, nhưng thay vì đưa vào tử cung, lại đưa ngay vào ống dẫn trứng để
sinh phôi tại đó (sau đó phôi tự động đi về tử cung như khi thụ tinh tự nhiên)
3. Cách thứ ba là hòa trứng với tinh trùng, rồi nuôi trong 24 gii, sau đó
mới đặt vào ống dẫn trứng như cách thứ hai.
4. Phương pháp tân tiến nhất, gọi là Tubal Embryo Transfer, viết tắt là
TET thì nuôi lâu hơn 24 giờ mới chuyển vô ống dẫn trứng, cũng có khi giữ
cái phôi đông lạnh để dành trước khi đưa vào ống dẫn trứng.
Trang Web này chỉ nhằm cung cấp những thông tin cõ bản về sức
khỏe và y tế. Nếu cần chữa bệnh, xin liên lạc trực tiếp với bác sĩ của bạn.
Bs Vũ Quí Đài, M.D., Ph.D.
Copyright, 2008. Muốn phổ biến bài viết này, cần xin phép tác giả và
xin ghi rõ nguồn Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com
Nguyên Nhân Hiếm Muộn – Cập Nhật -
Bs Trần Mạnh Ngô
(Phần đầu của bài này đã phổ biến trong YDNN, Thường Thức)
Truy tầm hiếm muộn phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều thời gian và
nhiều tiền bạc.
Khoa học truy tầm hiếm muộn là tìm hiểu cấu trúc và chức năng bộ
phận sinh đẻ của cả đàn ông lẫn đàn bà. Ở đây, chúng tôi chỉ xin trình bày
tổng quát những thử nghiệm truy tầm nguyên nhân hiếm muộn.
Thứ nhất là phân tích tinh trùng:
Trung bình mỗi phân khối tinh dịch chứa 20 triệu tinh trùng, 50% số
tinh trùng còn chuyển đng được và 20% tinh trùng có hình thái bình thường.
Nếu kết quả thử nghiệm tinh trùng bất bình thường thì sẽ phải thử lại cho
chính xác.
Thứ hai, chụp hình quang tuyến cơ quan giây chằng và tử cung
phụ nữ:
Chụp hình quang tuyến sẽ thực hiện khi vừa hết kinh và trước lúc
trứng rụng. An toàn nhất là khoảng ngày thứ 10 trong mỗi chu kỳ kinh
nguyệt phụ nữ. Trước hết, phải chích thuốc phản quang thật nhẹ vào tử cung.
Thuốc sẽ lan sang 2 bên đường dẫn trứng. Nếu đường dẫn trứng bị nở, cần
dùng trụ sinh doxycycline để ngừa bệnh viêm dây chằng. Nếu chụp hình
quang tuyến bất bình thường thì cần soi tử cung và soi bụng. Chụp hình
quang tuyến giúp xác định hình dáng tử cung hay dây chằng bất thường,
nhưng không thể chắc chắn xác định đường dẫn trứng có bị nghẹt hay
không?
Thứ ba, thử nghiệm sau khi giao hợp:
Nghĩa là coi tinh trùng có tác dụng ra sao với màng nhày cổ tử cung.
Đây là thử nghiệm tương đối đơn giản, ít tốn kém, nhưng kết quả có vẻ
tương phản, không đồng nhất, tùy theo ý kiến kết luận của từng bác sĩ
chuyên khoa.
Thử nghiệm thực hiện 2 hay 3 ngày sau khi trứng rụng. Vợ chồng
giao hợp trong vòng 8 tới 12 tiếng đồng trước khi gặp bác sĩ chuyên khoa.
Mục đích chính của thử nghiệm là muốn xem tinh trùng di chuyển qua cổ tử
cung như thế nàọ Đồng thời, qua ống kính hiển vi, tìm hiểu độ nhày của tinh
dịch, xem xét tinh trùng, bạch cầu, độ axít, v..v... Nếu thấy quá nhiều bạch
cầu tức là có bệnh viêm tử cung. Tìm hiểu tinh trùng còn chuyển động được
mạnh mẽ như thế nào? Lượng tinh trùng vừa đủ hay ít? Màng nhày cổ tử
cung chứa nhiều kháng thể chống tinh trùng? Bác sĩ chuyên khoa còn thử
nghiệm thêm nhiều thứ linh tinh phức tạp khác để tìm hiểu thêm nguyên
nhân hiếm muộn.
Thứ tư, xác định trứng rụng:
Khoảng 20-25% trường hợp trứng rụng lộn xộn là nguyên nhân của
hiếm muộn. Có thể tại trứng không rụng được, giai đoạn hoàng thể (luteal)
bất thường, hay trứng rụng không đúng cách. Còn nhiều thử nghiệm khác
nữa như: đo nhiệt độ cơ thể, tìm hiểu tình trạng cổ tử cung biến đổi ra sao,
đo đô kích thích tố LH trong nước tiểu, đo kích thích tố progesterone trong
huyết thanh, sinh thiết màng nhày tử cung, và siêu âm.
Đo nhiệt độ cơ thể là cách đơn giản và rẻ tiền nhất để tiên đoán lúc
trứng rụng. Đo nhiệt độ mỗi buổi sáng trước khi ra khỏi giường. Nếu thấy
nhiệt độ thay đổi khoảng 0.4ồ F trong 2 ngày liên tục giúp tiên đoán trứng
rụng.
Thử nghiệm màng nhày cổ tử cung thay đổi cũng giúp chẩn đoán
trứng rụng. Giữa chu kỳ kinh nguyêt, cổ tử cung mềm ra, lỗ tử cung nở rộng
và chứa nhiều nước nhờn trong. Vài ngày sau khi trứng rụng, cổ tử cung đột
nhiên cứng lại, lỗ tử cung khép kín, bao phủ chất nhờn.
Ngoài việc thử nghiệm kích thích tố LH trong nước tiểu hay kích
thích tố progesterone trong huyết thanh, sinh thiết (biopsy) màng nhày tử
cung sẽ giúp thêm tìm hiểu trứng rụng.
Siêu âm cũng bổ túc thêm nữa truy tầm rụng trứng nhưng không được
chính xác lắm.
Sau hết, thứ năm là thử nghiệm đặc biệt như soi tử cung và soi
bụng
Mục đích chính tìm hiểu bệnh lạc màng trong tử cung (endometriosis)
hay bệnh dính những bộ phận (adhesions) bên trong xương chậu. Soi tử
cung cũng giúp coi bên trong tử cung có hình thái bình thường hay không?
Hoặc bị mọc bướu hay có chứng bệnh tử cung bẩm sinh?
Nói tóm lại, truy tầm bệnh hiếm muộn rất phức tạp, cần nhiều kiên
nhẫn, sự hợp tác lâu dài của cả 2 vợ chồng và bác sĩ chuyên khoa.
Để kết luận, xin nói thêm là trong thời gian truy tầm nguyên nhân
hiếm muộn, cả 2 vợ chồng đều không được hút thuốc lá, không nên uống
rượu, và không dùng ma túy. (Bài này đã được phổ biến trong Y Học
Thường Thức, Y Dược Ngày Nay):
Sau đây là vài Cập Nhật điều trị Hiếm Muộn:
Điều trị hiếm muộn tùy theo nguyên nhân: đã bị hiếm muộn bao lâu
rồi, hoặc tuổi tác vợ chồng, v…v…
Có nhiều cách: làm cho thụ thai trở lại cho cả đàn ông và đàn bà. Tăng
giao hợp thường xuyên. Tuy nhiên cần lưu ý: đàn ông giao hợp nhiều hơn sẽ
giảm lượng tinh trùng. Tinh trùng chỉ sống trong tử cung lâu khoảng 24 giờ
và khi trứng rụng thì phải thụ thai trong vòng 24 giờ.
Đối với phái nam thì phải _________lưu

Bạn sẽ sinh con trai hay gái?


(Eva.vn) - Dựa vào bộ lịch cổ xưa của người Trung Hoa, đa số các cặp vợ chồng có thể dự đoán được chính xác giới tính của con mình khi sinh.
Chúng ta đều biết, tinh dịch của người đàn ông bao gồm tinh trùng X và Y, quyết định đến khả năng sinh con trai hay con gái sau này. Dựa vào đặc tính sinh lý này của các tinh trùng, các bác sĩ phụ khoa đã xây dựng nên phương pháp lựa chọn giới tính thai nhi khi sinh con.
1. Thức ăn
Nếu muốn sinh con gái: Người vợ phải thường xuyên ăn các thực phẩm giàu tính axit, có trong các loại thịt, hải sản… Còn người chồng nên ăn nhiều thực phẩm giàu tính kiềm có trong các loại rau quả, lòng trắng trứng, sữa…
Nếu muốn sinh con trai: Người chồng nên ăn nhiều thực phẩm giàu tính axit, còn người vợ nên ăn các thực phẩm giàu chất kiềm.
2. Thời điểm giao hợp
Nếu muốn sinh con gái: Nên giao hợp trước thời kỳ rụng trứng.
Nếu muốn sinh con trai: Nên giao hợp ở thời kỳ rụng trứng hoặc sau đó.
3. Phương pháp giao hợp
Nếu muốn sinh con gái: Người chồng không nên để dương vật “xâm nhập” quá sâu vào âm hộ của người vợ trong quá trình giao hợp.
Nếu muốn sinh con trai: Người chồng nên để dương vật vào càng sâu càng tốt. Nguyên nhân là do đặc tính của tinh trùng X và Y. Tinh trùng X chạy nhanh hơn và dẻo dai hơn, ngược lại, tinh trùng Y thường chạy chậm hơn và cũng “yếu” hơn, do đó, nếu “xâm nhập” vào sâu, tinh trùng Y mới có cơ hội đến đích trước.
4. Sự hứng khởi
Nếu muốn sinh con gái: Người chồng nên tránh kích thích quá nhiều lên người vợ bởi nó sẽ kích thích sự bài tiết chất kiềm trong âm hộ người phụ nữ, đây là chất làm phát triển hoạt động của nhiễm sắc thể Y.
Nếu muốn sinh con trai: Ngay khi người vợ bị kích thích cao nhất, người chồng nên cho “xuất quân” ngay.
5. Sự chuẩn bị
Nếu muốn sinh con gái: Rửa âm đạo bằng dung dịch hòa tan bởi 2 thìa dấm trắng và 1 lít nước. Bởi vì trong môi trường axít sẽ làm giảm hoạt động của nhiễm sắc thể Y.
Nếu muốn sinh con trai: Rửa âm đạo với dung dịch hòa tan bởi 2 thìa sô đa và 1 lít nước.
6. Tư thế
Nếu bạn muốn sinh con gái: Người phụ nữ nằm trên còn người đàn ông nằm dưới.
Nếu bạn muốn sinh con trai: Người đàn ông nằm trên còn người phụ nữ nằm dưới. Với tư thế này, nhiễm sắc thể Y có thể tiến “về đích” nhanh hơn.
7. Biểu đồ sinh con của người Trung Quốc
Được tìm thấy trong một ngôi mộ gần Bắc Kinh, với niên đại khoảng hơn 700 năm và bây giờ đang thuộc Viện Khoa Học Bắc Kinh, biểu đồ này đã được lịch sử chứng minh là rất chính xác và được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
.
Điều bạn cần để biết giới tính của thai nhi là tháng bạn thụ thai và tuổi của bạn lúc bạn thụ thai. Ví dụ, nếu phụ nữ 27 tuổi và thụ thai trong tháng 1 (theo lịch Trung Quốc), thì đứa bé trong tương lai sẽ là con gái.
Cột hàng ngang đánh số từ 18 đến 45 là độ tuổi của người phụ nữ khi mang thai, còn cột hàng dọc, từ 1 đến 12 chính là các tháng trong một năm. Các ký tự T tương ứng với con trai và G tương ứng với con Gái nếu thụ thai vào thời gian và độ tuổi tương ứng. Dựa theo biểu đồ trên, các cặp vợ chồng có thể dự đoán trước được giới tính của thai nhi, nhờ đó lên kế hoạch chuẩn bị cho thật tốt để chào đón em bé ra đời.


HIẾM MUỘN VÀ VÔ SINH


Theo kiểu Mỹ, thì cái gì cũng phải tính ra thành con số. Không như các cụ ta ngày xưa, chưa chi đã than là hiếm muộn sợ không có con nối dõi tông đường, để mà đòi bà lớn phải vui vẻ tuyên bố "muốn cưới vợ bé em thời cưới cho". Vậy thì định nghĩa y học của hiếm muộn, là : một cặp đã có chương trình kế hoạch ăn nằm tương đối đúng lịch trình, mà sau 12 tháng vẫn chưa thụ thai được. Theo như thống kê của Ban Điều tra về Gia đình Hoa kỳ, thì tỉ số hiếm muộn ở các nước tiền tiến là từ 10 đến 15 phần trăm. Hiếm muộn gọi là loại 1, nếu cặp vợ chồng chưa bao giờ có bầu, và gọi là loại 2, nếu trước đó đã từng có bầu, dù có sanh con hay sẩy thai mà bây giờ mong có con nữa lại bị khó khăn. Tính theo xác suất, thì một cặp vợ chồng khỏe mạnh bình thường, cứ mỗi kỳ kinh nguyệt thì khả năng có bầu là khoảng 25 phần trăm. Theo kiểu Mỹ, thì cái gì cũng phải tính ra thành con số. Không như các cụ ta ngày xưa, chưa chi đã than là hiếm muộn sợ không có con nối dõi tông đường, để mà đòi bà lớn phải vui vẻ tuyên bố "muốn cưới vợ bé em thời cưới cho". Vậy thì định nghĩa y học của hiếm muộn, là : một cặp đã có chương trình kế hoạch ăn nằm tương đối đúng lịch trình, mà sau 12 tháng vẫn chưa thụ thai được. Theo như thống kê của Ban Điều tra về Gia đình Hoa kỳ, thì tỉ số hiếm muộn ở các nước tiền tiến là từ 10 đến 15 phần trăm. Hiếm muộn gọi là loại 1, nếu cặp vợ chồng chưa bao giờ có bầu, và gọi là loại 2, nếu trước đó đã từng có bầu, dù có sanh con hay sẩy thai mà bây giờ mong có con nữa lại bị khó khăn. Tính theo xác suất, thì một cặp vợ chồng khỏe mạnh bình thường, cứ mỗi kỳ kinh nguyệt thì khả năng có bầu là khoảng 25 phần trăm. Cứ thế kéo dài 12 kỳ kinh nguyệt, thì khả năng mang thì khả năng mang thai phải lên quá 90 phần trăm.
Hiếm muộn là do cả hai phía nam nữ (không phải tại anh cũng không phải tại em!). Chừng 40 phần trăm là do các yếu tố về phiá người vợ, 40 phần trăm phía người chồng, còn lại 20 phần trăm là do cả hai.  Khả năng thụ thai của phụ nữ giảm dần sau tuổi ba mươi lăm. Thống kê ở vùng quê Senegal (Phi châu), cho thấy đàn bà trung bình có 8 con, tuổi thụ thai dễ nhất là 25 và từ 35 tuổi thì kém hẳn. Vùng cao bồi phía tây bắc nước Mỹ (thuộc các tiểu bang Montana và Dakota), có một giáo phái không bao giờ sử dụng phương pháp ngừa thai, ở đó người ta cũng thấy tuổi thụ thai nhiều nhất là tuổi 25. Ở Pháp, có một thống kê với cùng một kết qủa: Người ta làm thụ thai nhân tạo cho hơn hai ngàn người (lý do vì chồngỞ Pháp, có một thống kê với cùng một kết qủa: Người ta làm thụ thai nhân tạo cho hơn hai ngàn người (lý do vì chồng không có tinh trùng), thì thấy rằng kết quả tốt nhất là những người ba mươi tuổi trở xuống (74 phần trăm mang thai), nhóm 31 tới 35 tuổi thì được 62 phần trăm, nhóm trên 35 tuổi chỉ có 54 phần trăm.
Nguyên nhân hiếm muộn phía nữ giới Các bệnh liên quan đén vấn đề rụng trứng chiếm khoảng một phần ba. Các bệnh này tương đối dễ chẩn đoán và có thể điều trị được. Nguyên do có thể là các tuyến nội tiết hoặc là bệnh buồng trứng. Ngoài ra những người hút thuốc lá, cần sa, LSD... cũng có thể bị bệnh ít trứng rụng hay là không có trứng rụng.
Khoảng 10 – 40 phần trăm là do bệnh ống dẫn trứng (giây chằng). Ống đẫn trứng làm việc không được hoàn hảo, hay là bị nghẹt, vì trước đó bị viêm do nhiễm trùng (thí dụ như bị bệnh lậu), có giải phẫu từ trước, cũng có khi do một bệnh gọi là bệnh nội cung (endometriosis, bệnh liên quan tới lớp màng lót bên trong tử cung mọc lạc chỗ). Những nguyên do khác thì có thể kể các chứng về màng bụng, các cuộc giải phẫu cũ làm sẹo dính, bệnh xơ tử cung làm tinh trùng khó di chuyển, chất nhờn cổ tử cung không được tốt. Thảng hoặc cũng có người tạo ra kháng thể chống tinh trùng (mỗi lần giao hợp có cả tỉ con tinh trùng đi vào tử cung), nhưng chuyện này khá hiếm. Người bị bệnh bẩm sinh do rối loạn nhiễm sắc thể, gọi là hội chứng Turner thì không thụ thai được. Loài người ta, nam nữ khác nhau là vì nam giới có hai nhiễm sắc thể phái tính trong tế bào gọi là XY, nữ giới lại có hai nhiễm sắc thể phái tính là XX. Người bị hội chứng Turner thì chỉ có một là X mà thôi (làm như là thiếu chất nữ), tướng người thấp lùn, cái cổ thì chè bè, trong bụng có tử cung nhưng buồng trứng thì không có hay là teo không hoạt động.
Người đàn ông tốt giống, là người có tinh trùng đầy đủ số lượng và chất lượng, ống dẫn tinh tốt, tinh trùng được tích trữ và di chuyển hoàn hảo, và giao hợp đúng lúc. Có một số thuốc nếu dùng lâu có thể làm hại tinh dịch và tinh trùng, thí dụ như thuốc bao tử Tagamet, thuốc trụ sinh Erythromycin, Tetracycline (nhiều khi uống lâu dài để trị trứng cá) mấy trụ sinh khác như Septra, Furadantin, thuốc colchicin trị bệnh gout (khớp sưng đỏ). Thuốc lợi tiểu và một vài thứ thuốc cao máu làm yếu sinh lý. Thuốc kích thích loại anabolic steroids mà ta thấy báo chí đôi khi đăng về một số lực sĩ xài trái phép, có thể làm cho số tinh trùng bị giảm sút hoặc mất hẳn.  Chừng 6 phần trăm số đàn ông hiếm muộn là do chứng "ẩn hoàn" (cryptorchidism). Ngọc hoàn của cái thai thoạt kỳ thủy nằm ở trong bụng. Vào khoảng thời gian sắp lọt lòng mẹ, thì mới theo hai cái ống hai bên mà xuống cái bìu. Nếu một hay hai ngọc hoàn còn nằm ở trong bụng, thì kể là bị chứng ẩn hoàn. Cần phải mổ để đưa xuống dưới đúng vị trí từ khi đứa trẻ còn nhỏ, nếu để lâu thì dễ bị ung thư ngọc hoàn. Người đàn ông bị ẩn hoàn dù chỉ là một bên thôi thì sự sản xuất tinh trùng của ngọc hoàn bên kia (nằm ở bìu như thường) cũng bị sút giảm Như đã nói trên, đàn bà lâu lâu có người sinh ra kháng thể chống lại tinh trùng của chồng. Chuyện lạ hơn nữa, là đàn
ông có người lại tự sinh ra kháng thể chống lại chính tinh trùng của mình. Thuờng thì tinh trùng nằm cô lập trong ngọc hoàn, không giao tiếp với hệ


Trang Web này chỉ nhằm cung cấp những thông tin cõ bản về sức khỏe và y tế. Nếu cần chữa bệnh, xin liên lạc trực tiếp với bác sĩ của bạn.  Bs Vũ Quí Đài, M.D., Ph.D. Copyright, 2008. Muốn phổ biến bài viết này, cần xin phép tác giả và xin ghi rõ nguồn Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com  Nguyên Nhân Hiếm Muộn – Cập Nhật -  Bs Trần Mạnh Ngô  (Phần đầu của bài này đã phổ biến trong YDNN, Thường Thức) Truy tầm hiếm muộn phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều thời gian và nhiều tiền bạc.  Khoa học truy tầm hiếm muộn là tìm hiểu cấu trúc và chức năng bộ phận sinh đẻ của cả đàn ông lẫn đàn bà. Ở đây, chúng tôi chỉ xin trình bày tổng quát những thử nghiệm truy tầm nguyên nhân hiếm muộn. Thứ nhất là phân tích tinh trùng: Trung bình mỗi phân khối tinh dịch chứa 20 triệu tinh trùng, 50% số tinh trùng còn chuyển đng được và 20% tinh trùng có hình thái bình thường. Nếu kết quả thử nghiệm tinh trùng bất bình thường thì sẽ phải thử lại cho chính xác.
Thứ hai, chụp hình quang tuyến cơ quan giây chằng và tử cung phụ nữ:  Chụp hình quang tuyến sẽ thực hiện khi vừa hết kinh và trước lúc trứng rụng. An toàn nhất là khoảng ngày thứ 10 trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt phụ nữ. Trước hết, phải chích thuốc phản quang thật nhẹ vào tử cung. Thuốc sẽ lan sang 2 bên đường dẫn trứng. Nếu đường dẫn trứng bị nở, cần dùng trụ sinh doxycycline để ngừa bệnh viêm dây chằng. Nếu chụp hình quang tuyến bất bình thường thì cần soi tử cung và soi bụng. Chụp hình quang tuyến giúp xác định hình dáng tử cung hay dây chằng bất thường, nhưng không thể chắc chắn xác định đường dẫn trứng có bị nghẹt hay không? Thứ ba, thử nghiệm sau khi giao hợp: Nghĩa là coi tinh trùng có tác dụng ra sao với màng nhày cổ tử cung. Đây là thử nghiệm tương đối đơn giản, ít tốn kém, nhưng kết quả có vẻ tương phản, không đồng nhất, tùy theo ý kiến kết luận của từng bác sĩ chuyên khoa.  Thử nghiệm thực hiện 2 hay 3 ngày sau khi trứng rụng. Vợ chồng giao hợp trong vòng 8 tới 12 tiếng đồng trước khi gặp bác sĩ chuyên khoa. Mục đích chính của thử nghiệm là muốn xem tinh trùng di chuyển qua cổ tử
cung như thế nàọ Đồng thời, qua ống kính hiển vi, tìm hiểu độ nhày của tinh dịch, xem xét tinh trùng, bạch cầu, độ axít, v..v... Nếu thấy quá nhiều bạch cầu tức là có bệnh viêm tử cung. Tìm hiểu tinh trùng còn chuyển động được mạnh mẽ như thế nào? Lượng tinh trùng vừa đủ hay ít? Màng nhày cổ tử cung chứa nhiều kháng thể chống tinh trùng? Bác sĩ chuyên khoa còn thử nghiệm thêm nhiều thứ linh tinh phức tạp khác để tìm hiểu thêm nguyên nhân hiếm muộn.  Thứ tư, xác định trứng rụng:  Khoảng 20-25% trường hợp trứng rụng lộn xộn là nguyên nhân của hiếm muộn. Có thể tại trứng không rụng được, giai đoạn hoàng thể (luteal) bất thường, hay trứng rụng không đúng cách. Còn nhiều thử nghiệm khác nữa như: đo nhiệt độ cơ thể, tìm hiểu tình trạng cổ tử cung biến đổi ra sao, đo đô kích thích tố LH trong nước tiểu, đo kích thích tố progesterone trong huyết thanh, sinh thiết màng nhày tử cung, và siêu âm.  Đo nhiệt độ cơ thể là cách đơn giản và rẻ tiền nhất để tiên đoán lúc trứng rụng. Đo nhiệt độ mỗi buổi sáng trước khi ra khỏi giường. Nếu thấy nhiệt độ thay đổi khoảng 0.4ồ F trong 2 ngày liên tục giúp tiên đoán trứng rụng

Thử nghiệm màng nhày cổ tử cung thay đổi cũng giúp chẩn đoán trứng rụng. Giữa chu kỳ kinh nguyêt, cổ tử cung mềm ra, lỗ tử cung nở rộng và chứa nhiều nước nhờn trong. Vài ngày sau khi trứng rụng, cổ tử cung đột nhiên cứng lại, lỗ tử cung khép kín, bao phủ chất nhờn.  Ngoài việc thử nghiệm kích thích tố LH trong nước tiểu hay kích thích tố progesterone trong huyết thanh, sinh thiết (biopsy) màng nhày tử cung sẽ giúp thêm tìm hiểu trứng rụng.  Siêu âm cũng bổ túc thêm nữa truy tầm rụng trứng nhưng không được chính xác lắm. Sau hết, thứ năm là thử nghiệm đặc biệt như soi tử cung và soi bụng Mục đích chính tìm hiểu bệnh lạc màng trong tử cung (endometriosis) hay bệnh dính những bộ phận (adhesions) bên trong xương chậu. Soi tử cung cũng giúp coi bên trong tử cung có hình thái bình thường hay không? Hoặc bị mọc bướu hay có chứng bệnh tử cung bẩm sinh? Nói tóm lại, truy tầm bệnh hiếm muộn rất phức tạp, cần nhiều kiên nhẫn, sự hợp tác lâu dài của cả 2 vợ chồng và bác sĩ chuyên khoa.  Để kết luận, xin nói thêm là trong thời gian truy tầm nguyên nhân hiếm muộn, cả 2 vợ chồng đều không được hút thuốc lá, không nên uống

Thử nghiệm màng nhày cổ tử cung thay đổi cũng giúp chẩn đoán trứng rụng. Giữa chu kỳ kinh nguyêt, cổ tử cung mềm ra, lỗ tử cung nở rộng và chứa nhiều nước nhờn trong. Vài ngày sau khi trứng rụng, cổ tử cung đột nhiên cứng lại, lỗ tử cung khép kín, bao phủ chất nhờn.  Ngoài việc thử nghiệm kích thích tố LH trong nước tiểu hay kích thích tố progesterone trong huyết thanh, sinh thiết (biopsy) màng nhày tử cung sẽ giúp thêm tìm hiểu trứng rụng.  Siêu âm cũng bổ túc thêm nữa truy tầm rụng trứng nhưng không được chính xác lắm. Sau hết, thứ năm là thử nghiệm đặc biệt như soi tử cung và soi bụng Mục đích chính tìm hiểu bệnh lạc màng trong tử cung (endometriosis) hay bệnh dính những bộ phận (adhesions) bên trong xương chậu. Soi tử cung cũng giúp coi bên trong tử cung có hình thái bình thường hay không? Hoặc bị mọc bướu hay có chứng bệnh tử cung bẩm sinh? Nói tóm lại, truy tầm bệnh hiếm muộn rất phức tạp, cần nhiều kiên nhẫn, sự hợp tác lâu dài của cả 2 vợ chồng và bác sĩ chuyên khoa.  Để kết luận, xin nói thêm là trong thời gian truy tầm nguyên nhân hiếm muộn, cả 2 vợ chồng đều không được hút thuốc lá, không nên uống
ượu, và không dùng ma túy. (Bài này đã được phổ biến trong Y Học Thường Thức, Y Dược Ngày Nay):  Sau đây là vài Cập Nhật điều trị Hiếm Muộn: Điều trị hiếm muộn tùy theo nguyên nhân: đã bị hiếm muộn bao lâu rồi, hoặc tuổi tác vợ chồng, v…v…  Có nhiều cách: làm cho thụ thai trở lại cho cả đàn ông và đàn bà. Tăng giao hợp thường xuyên. Tuy nhiên cần lưu ý: đàn ông giao hợp nhiều hơn sẽ giảm lượng tinh trùng. Tinh trùng chỉ sống trong tử cung lâu khoảng 24 giờ và khi trứng rụng thì phải thụ thai trong vòng 24 giờ.  Đối với phái nam thì phải lưu ý: vấn đề yếu sinh lý hay xuất tinh sớm quá. Đối với đàn ông thì cần điều trị bằng giải phẫu, kích thích tố, hay dùng máy để hút thêm tinh trùng. Có trường hợp phải giải bỏ cắt bỏ tĩnh mạch sưng lớn (varicocele) ngăn cản tinh trùng không ra được đầy đủ Đối với phụ nữ thì kích thích cho trứng rụng. Thí dụ dùng thuốc uống Clomiphene nitrate, kích thích tố human menopausal gonadotropin (hMG), dùng kích thích tố Follicle-stimulating (FSH) kích thích buồng trứng làm trứng trưởng thành, dùng kích thích tố human chorionic gonadotropin (HCG), tổng hợp clomephene, hMG và FSH, để kích thích biến nang (follicle) thành trứng rụng, dùng Gonadodotropin-releasing hormone analog